Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Làng Quất Động (Hà Nội) - VĂN HÓA NGHỀ TRUYỀN THỐNG LÀNG QUẤT ĐỘNG

Lịch sử phát triển nghề truyền thống

Trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Ở nước ta thời vua Hùng người Lạc Việt đã biết “mặc áo chui đầu, cài khuy bên trái, các cô gái mặc váy áo thêu”. Sử sách cũ còn ghi: Đời Trần vua quan nước ta đã dùng lọng và đồ thêu. Như vậy nghề thêu đã có ở nước ta từ rất sớm nhưng rất tiếc không được ghi chép đầy đủ.
Giai đoạn từ năm 1900 đến năm 1918, sách “Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam” của Vũ Huy Phúc có viết: “Ở Hà Đông nghề xếp đầu tiên là nghề thêu” và nhắc lại nguồn gốc nghề có từ thời Lê do Lê Công Hành dậy dân vùng Quất Động.
Giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1923 sách trên lại chép: “Tại hội chợ Hà Nội năm 1919 có 264 gian hàng, Hà Đông có 12 mặt hàng trong đó có đồ thêu” hẳn cũng là đồ thêu của thợ vùng này.
Sách “Hà Đông tỉnh địa dư chí” của J.Rowan (xuất bản năm 1925) nói cụ thể hơn về số thợ thêu trong vùng: Quất Động 600 người, Vũ Lăng 600 người, Bình Lăng 40 người, Tam Xá 50 người. Trong phong trào chấn hưng công nghệ do Hoàng Trọng Phu (Tổng đốc Hà Đông) khởi xướng vào những năm 30 của thế kỉ trước nghề thêu của vùng Quất Động được phát triển mạnh. Thời đó đã có xưởng thêu lớn ở Hướng Dương thu hút hàng trăm tay thợ của cả vùng thêu Quất Động.
 
Vào năm 1939 theo thống kê số thợ thủ công Việt Nam của Bulletin, cả Bắc Kỳ khi đó có 2315 thợ thêu tập trung ở 4 vùng lớn ứng với tứ trấn quanh Hà Nội xưa. Trong đó số ít cũng có quá nửa là thợ Hà Đông tập trung ở vùng Quất Động. Có thể đây là thời cực thịnh của nghề thêu trong toàn xứ nói chung và vùng Quất Động nói riêng. Từ năm 1940 khi Nhật nhảy vào Đông Dương trở về sau, nghề thêu lâm vào cảnh đình đốn kéo dài.
Thời kỳ hợp tác hóa nông thôn (từ 1956 đến 1986)
Sau hòa bình lặp lại ở miền Bắc (1954) và cải cách ruộng đất (1955 – 1956) kế hoạch phục hồi kinh tế của nước ta đạt rất nhiều thành tựu, phong trào hợp hóa ở nông thôn lên cao. Cùng với nông nghiệp nhiều hợp tác xã thủ công nghiệp cũng được thành lập trong đó có hợp tác xã thêu.
Thời nghề thêu phát triển rầm rộ nhất (1972 – 1986) riêng ở huyện Thường Tín vốn là quê gốc nghề thêu nên nghề này từ Quất Động, Thắng Lợi đã được nhân rộng ra hầu khắp các xã trong huyện: Lê Lợi, Dũng Tiến, Nguyễn Trãi, Chương Dương,...
Sau khi có chính sách khoán 10 ở nông thôn cộng với việc mất thị trường truyền thống do chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã (năm 1993), các hợp tác xã thủ công nghiệp trong đó hợp tác xã thêu dần dần giải thể và nghề thêu lại một lần nữa lắng xuống.
Theo ý kiến của cụ Bùi Thị Hánh 74 tuổi: tình hình trong nước lúc đó có rất nhiều biến động đã tác động mạnh mẽ đến nghề thêu ở Quất Động. Lúc đó các nguồn hàng thêu dường như không có, người dân tưởng chừng như không thể tiếp tục theo nghề.
Thời kỳ đổi mới
Chủ trương xóa bỏ nền kinh tế bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa của Đảng từ Đại Hội lần thứ VI (1986) được thực hiện đã đưa nền kinh tế nước ta sang một giai đoạn phát triển mới trong đó có nghề thủ công nói chung và nghề thêu nói riêng.
Tại Hà Tây năm 1996 có 839 làng nghề thủ công, đến năm 2000 đã lên 972 làng trong đó có 120 làng được phong danh hiệu làng nghề. Quất Động là một trong số những làng đạt danh hiệu ấy.
Tính đến 01/02/2002 làng nghề thêu Quất Động có hơn 400 hộ làm nghề thêu (hầu như cả làng) thu hút gần 1000 lao động. Thu nhập từ nghề thêu chiếm hơn 40% tổng thu nhập hàng năm (Theo thông tin em hỏi, thì vì thời gian đã quá lâu nên không ai nhớ được con số về nghề trong giai đoạn này, nhưng người dân nói đây là giai đoạn nghề bắt đầu đi xuống, do trước đây sản phẩm chú yếu xuất sang thị trường Đông Âu, thì đến thời kỳ này hàng xuất đi bắt đầu giảm. Còn nghề thêu vẫn là nghề phụ trong lúc nông nhàn, nhiều gia đình vẫn làm chính là nông nghiệp, lúc  rảnh rỗi thì làm thêu). Nhưng một vài năm gần đây, nghề thêu của làng Quất Động dường như lại lắng xuống, không phát triển như những năm trước đó. Về thăm làng thêu hôm nay không chỉ có các nhà báo, những người tìm học nghề mà còn có nhiều khách nước ngoài tìm đến tận nơi để đặt hàng và mua hàng theo ý muốn. Họ không chỉ biết đến nghề thêu Quất Động mà còn biết đến cả các nghệ nhân có tay nghề cao như: nghệ nhân Bùi Đình Hán (đã mất), nghệ nhân Phạm Viết Tương (đã mất), nghệ nhân Phạm Viết Đinh (đã mất), cụ Bùi Thị Tuyết, cụ Bùi Thị Hánh, cô Hoàng Thị Khương, chú Hoàng Viết Chỉnh,...
Ông tổ nghề thêu:
Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái. Ông sinh năm Bính Ngọ (1606) tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội).
Năm Bính Tuất (1646), ông được cử đi sứ nhà Minh. Trong lần đi sứ này vô tình ông đã học được nghề thêu và ông đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên.
Bên cạnh đó, ông cũng dạy lại cách làm lọng cho người dân. Để ghi nhớ công ơn ông, sau khi Lê Công Hành mất (năm 1661), nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.
Một số tài liệu cho rằng trước khi Lê Công hành truyền dạy nghề thêu và làm lọng cho dân chúng, những nghề này đã tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, nó phát triển nhỏ lẻ, kỹ thuật khá đơn sơ, quanh quẩn với vài màu chỉ và chủ yếu phục vụ cho vua quan.
Sử sách cũ còn ghi lại ở đời Trần, vua quan ta đã dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, trước năm đi sứ của Lê Công Hành khoảng hơn 350 năm, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyễn một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu (theo Từ Minh Thiện viết trong tập Thiên nam hành ký).
 
Ông tổ nghề thêu Lê Công Hành (Nguồn: Thư viện lịch sử)
Đặc điểm nghề truyền thống
Nghề thêu làng Quất Động được chia thành 3 loại hình:
Thêu tranh (phong cảnh, hoa, động vật, địa danh, …)
 
Thêu chân dung (Vua chúa, Nhân vật lịch sử, Nguyên thủ quốc gia,...)
Thêu trang phục cung đình, phục chế trang phục,...
 
Trong đó thêu tranh được xem là đơn giản nhất vì tự do sáng tác theo cảm xúc của người thêu, tùy theo độ say mê, yêu nghề, đường nét tinh tế hay thô sơ sẽ thể hiện chất lượng của bức tranh.
Thêu chân dung là khó nhất vì cần phải hiểu và cảm nhận được thần thái của nhân vật, sau đó phải biết cách thể hiện tinh thần đó thông qua những nét chỉ, nếu không tinh tế thì sẽ không thể thành công.
Thêu và phục chế trang phục cung đình lại đòi hỏi sự tuân chỉ nghiêm ngặt những nguyên tắc đã quy định đối với trang phục cung đình, thể hiện thứ hạng của từng loại trang phục, màu sắc, hoa văn phải chính xác, không được phép sáng tạo.
Các nghệ nhân thêu làng Quất Động đã cho ra đời rất nhiều sản phẩm đa dạng, từ các nhóm hàng truyền thống như: câu đối, nghi môn, lọng, cờ, trướng, khăn trải bàn, các loại trang phục sân khấu cổ truyền…đến các bức tranh thêu phong cảnh, thêu chân dung sáng tạo như: nhà sàn Bác Hồ, chùa Một Cột, chân dung Lê Nin… Ngoài nghề thêu, nhiều nhà còn kiêm khâu vá, đính hạt cườm, gắn sừng, ráp túi xách...trên sản phẩm thêu. Mọi nhà đều làm trên đơn đặt hàng với mẫu mã cho sẵn hoặc tự sáng tác, cứ 2 ngày 1 lần, các đơn vị và du khách lại về mua và vận chuyển hàng đi các tỉnh.
Quá trình sản xuất các sản phẩm  truyền thống:
Nguyên vật liệu sản xuất:
Nghề thêu ren không quá phức tạp, đòi hỏi lớn nhất với những người làm nghề là sự kiên trì, cẩn thận và ý thức làm việc tập thể. Công cụ dùng trong nghề thêu ren khá đơn giản. Các thợ thêu chỉ sử dụng một số thứ vật liệu ở mức tối thiểu như khung thêu, kim thêu các cỡ (kiểu tròn và kiểu chữ nhật), kéo, thước, bút lông, phấn mỡ, vải thêu (vải trắng, sa tanh, lụa...), chỉ thêu các màu. Chính vì thế, nghề thêu ren rất phù hợp với khả năng nguồn lao động của nước ta, nhất là ở khu vực nông thôn. Mũi kim thoăn thoắt đưa đi đưa lại những đường chỉ cùng đó là những hình thù với màu sắc sống động dần hiện ra.
Chỉ: chỉ tơ và chỉ dầy
Vải thêu: vải thêu tranh hoặc vải thêu thời trang (thêu quần áo, thêu vỏ gối…)
Khung thêu: Khung thêu tròn hoặc khung chữ nhật.
Công đoạn sản xuất:
Trải qua thời gian, người thợ làng nghề Quất Động đã phát triển kĩ thuật thêu truyền thống với những kĩ thuật mới công phu như kĩ thuật thêu hai mặt. Tranh thêu hai mặt được làm trên chất liệu voan mỏng, dùng chỉ thêu bằng tơ tằm được rất nhiều người ưa chuộng. Nhìn vào bức tranh thêu hai mặt, người ta không thể nhận ra đâu là điểm bắt đầu và đâu là điểm kết thúc, bởi những chân chỉ được nghệ nhân dấu vào chính giữa. Cũng chính bởi vậy, thêu hai mặt chỉ có những nghệ nhân lâu đời mới làm được thuần thục, và công đoạn thêu tranh này cũng phải tốn thời gian gấp 3,4 lần so với thêu thường.
Quy trình sản xuất sản phẩm thêu ren bao gồm những công đoạn cơ bản: pha cắt, in kẻ, thêu, kiểm hoá (thêu kỹ thuật, hoàn thiện tranh thêu), giặt là, đóng gói.
Kỹ thuật thêu
Trải qua thời gian, người thợ làng nghề Quất Động đã phát triển kĩ thuật thêu truyền thống với những kĩ thuật mới công phu như kĩ thuật thêu hai mặt. Tranh thêu hai mặt được làm trên chất liệu voan mỏng, dùng chỉ thêu bằng tơ tằm được rất nhiều người ưa chuộng. Nhìn vào bức tranh thêu hai mặt, người ta không thể nhận ra đâu là điểm bắt đầu và đâu là điểm kết thúc, bởi những chân chỉ được nghệ nhân dấu vào chính giữa. Cũng chính bởi vậy, thêu hai mặt chỉ có những nghệ nhân lâu đời mới làm được thuần thục, và công đoạn thêu tranh này cũng phải tốn thời gian gấp 3,4 lần so với thêu thường.
 
Liên hệ trao đổi và chia sẻ
0913 542 332
phcuong39@gmail.com

DI SẢN LÀNG VIỆT

Assoc. Prof. Dr. PHAM HUNG CUONG
Head of Urban and Regional Planning Department
Address: 55 Giai Phong Road, Hai Ba Trung District, Hanoi, Vietnam
Email: cuongph@huce.edu.vn/ phcuong39@gmail.com

Mobile: 0913542332