Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Di sản làng Việt là tiềm năng văn hóa to lớn. Cần biến tiềm năng đó thành nguồn lực để phát triển nông thôn Việt Nam bền vững và giàu bản sắc.

Làng Châu Khê (Thái Bình) - DI SẢN PHI VẬT THỂ LÀNG CHÂU KHÊ

Danh nhân

Làng Châu khê có truyền thống văn hiến và đánh giặc giữ nước.
Tướng quân Phạm Sỹ hiệu Huyền Du một danh tướng thời Trần thế kỷ 13 có công 2 lần cùng tham tán Phạm Ngũ Lão và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đánh thắng giặc Nguyên Mông (1255-1288) được vua phong Dực Hổ Hầu Hải dương đạo tiết chế bình nguyên đại tướng quân và được dân làng suy tôn là thành hoàng làng.
Châu Tùng Chinh thống lĩnh cấm binh thời Trần Phế Đế (1377-1388).
Nhiều danh nhân, tiến sĩ, khoa bảng là Phạm Thiệu, Ngô Văn Huy thế kỷ thứ 12-16 là thám hoa, tiến sĩ Hoàng Xuân Hiệp, Hoàng Xuân Linh thời Vua Tự Đức
Thế kỷ 20 có nhà giáo nhân dân, nhà thơ Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài thơ "Ông Đồ", nhà báo,nhà thơ chiến sĩ, liệt sĩ Hoàng Lộc với bài thơ "Viếng bạn" để lại ấn tượng sâu sắc cho văn học nước nhà, Nhà viết kịch Lộng Chương (tên thật là Phạm Văn Hiền) với nhiều tác phẩm có giá trị, đặc biệt vở hài kịch "Quẫn" đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh.
Có lăng tẩm khuê văn các do vua Trần trực tiếp cho xây để ghi công Phạm Sỹ, có đôi ngựa đá, bia đá cổ do quan tư đồ Trần nguyên Đán soạn ghi.
Lễ hội
Ở những địa phương khác, lễ hội làng (ngày làng vào đám) với những quy định về nghi thức lễ, những trò chơi... thường được ghi vào hương ước. Theo các bậc cao niên tại quê, tại phố trước đây Châu Khê có hương ước nhưng đã thất lạc. Nghi lễ được ghi trong “Bản khai sự tích Thành hoàng làng” của chính quyền xã Châu Khê (nay là thôn châu Khê) năm 1938 thì Châu Khê có 7 ngày tế lễ trong năm. Ngày mồng 1 tháng Giêng (ngày thánh đản), ngày mồng 1 tháng Chạp (ngày thánh hoá), ngày 7 tháng Giêng (tế lễ mùa Xuân), ngày 17 tháng 7 (tế lễ mùa Thu), ngày 2 tháng 3 (tế lễ hạ điền), ngày17 tháng 7 (tế lễ thượng điền),ngày 18 đến 21  tháng giêng (tế lễ kỳ phúc), ngày 26 tháng giêng (tế lễ kỳ yên). Đồ lễ (vật lễ) dùng lợn, gà, xôi, oản, giầu (trầu), rượu. Đồ lễ do người đăng cai chuẩn bị. Khi lễ xong thì những người dự lễ thụ lộc (kiến viên ẩm nhẫm).
Về thành phần, tiêu chuẩn dự lễ mục VI, VII trong bản khai sự tích thành hoàng làng ghi: Cả làng đều được dự tế lễ. trong ngày tế lễ, trong khi hành lễ, những người dự lễ phải ăn chay, tắm gội. Không có việc riêng cho giai tân gái tân hay người có tuổi vợ chồng song toàn. Trang phục khi tế lễ, mục VIII ghi: Lúc tế lễ thì mỗi người dự lễ đội mũ, mặc áo thụng lam.
Lễ rước ở phố Hàng Bạc, trước cách mạng tháng 8/1945 thường rước từ nhà số 42 hàng Bạc (nhà ty quan) sang nhà 58 hàng Bạc (nhà giao nhận sản phẩm).
Khi phục hồi lễ hội (năm 1991), chính quyền và ban quản lý di tích căn cứ vào trí nhớ của những người đã từng tham gia, đã từng xem hội, tham khảo lễ hội các địa phương lân cận và hướng dẫn của ngành văn hoá, sau đó xây dựng quy định về lễ hội và được đưa vào quy ước làng văn hoá Châu Khê, tại 3 điều: 4, 5, 7. Điều 4, điều 7 quy định độ tuổi tham gia lễ hội (có phần cứng và phần mềm), "Nam nữ của làng (nam từ 18, nữ từ 16) trở lên đều có bổn phận tham gia vào các ban của làng để cùng chăm lo việc lễ hội (phần cứng). Điều 7 ghi: Tất cả nam 18 tuổi, nữ 16 tuổi đến 70 tuổi (các cụ trên 70 tuổi được BTC trân trọng mời là đại biểu danh dự của lễ hội) và  một số thiếu niên có năng khiếu đều được phân công vào các tiểu ban của lễ hội, kể cả những người đi làm ăn xa về, cần tự nguyện gặp ban tổ chức nhận việc hội coi như bổn phận và trách nhiệm tất nhiên, nếu không nhận việc hội coi như bị hẫng hụt điều gì đó trân trọng nhất trong một năm làm ăn (phần mềm). Điều 5 nêu tên gọi lễ hội, ngày tổ chức lễ hội, quy định về cơ cấu trưởng phó ban tổ chức lễ hội. Tên gọi lễ hội: Lễ hội Xuân- giỗ tổ nghề kim hoàn làng Châu Khê, có năm ghi: Lễ hội Xuân- giỗ tổ nghề vàng bạc Châu Khê. Ngày tổ chức lễ hội "vào ngày 19 tháng giêng hàng năm". Ngày 1 tháng Chạp hàng năm (ngày hoá của Thành hoàng làng) được chọn là ngày thành lập ban tổ chức lễ hội. Cơ cấu BTC gồm trưởng phó ban và 8 tiểu ban: 1 trưởng, 5 phó (trưởng thôn, cấp uỷ, ban quản lý di tích, mặt trận tổ quốc thôn, người cao tuổi thôn). Có 8 tiểu ban gồm: Tổ tế nam, tuổi từ 45 trở lên (11-13 người); tổ dâng hương, gồm các nữ trung 35- 45 tuổi, (25 người); tổ dâng hoa, gồm các cháu thiếu niên 12-15 tuổi (20 cháu); tổ kiệu bát cống, long đình, nam 18-45 tuổi (30 người); tổ cờ lọng, bát bửu, nữ 18-60 tuổi (32 người); tổ rồng sư tử, nam (18 người); tổ tiếp tân, khánh tiết (20 người). Ban tổ chức xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội, báo cáo, đề nghị chính quyền các cấp cho phép kế hoạch này được triển khai. Những năm chưa có quy chế lễ hội của Nhà nước, thường có văn bản đề nghị (xin phép) mở lễ hội, kèm văn bản kế hoạch mở hội gửi chính quyền, ngành Văn hoá Thông tin. Câu cuối trong điều 5 còn ghi: Mọi người dân dù sinh sống ở nhà hay đi làm ăn xa đều trở về và có bổn phận tham gia công việc của làng do ban tổ chức phân công. Điều 7 quy định về quy mô lễ hội hàng năm, nhiệm vụ của ban tổ chức, quy định về phần lễ, phần hội. Quy mô lễ hội, điều 7 ghi: Những năm thường, hội mở nội bộ, những năm chẵn hội mở lớn  ngày 17-18-19. Thành phần ban tổ chức lễ hội có đại diện tại hương tại phố. Quy ước nêu rõ, tại hương chủ trì, tại phố hưởng ứng. Ban tổ chức làm việc theo nguyên tắc, cấp uỷ lãnh đạo, chính quyền điều hành, ban quản lý lập kế hoạch, MTTQ thôn, hội người cao tuổi thôn cùng đôn đốc thực hiện. Trung tâm tổ chức lễ hội tại đình làng.
Cảnh lễ hội ở Làng nghề vàng bạc ở Châu Khê
Mục đích, yêu cầu của lễ hội: Đảm bảo trang nghiêm, cội nguồn, dân trí lành mạnh, tiết kiệm, an toàn, không ảnh hưởng đến sản xuất. Cấm lợi dụng lễ hội để hành nghề mê tín dị đoan, cờ bạc, phân bì ngôi thứ gây mất đoàn kết xóm làng. Lực lượng nòng cốt của lễ hội, điều 7 ghi: Hội làng lấy đội tế nam, đội trống, đội kiệu long đình, đội dâng hương dâng hoa, đội cờ lọng, bát bửu, đội rồng, sư tử làm nòng cốt. Phần hội có các trò vui chơi giải trí như, cờ tướng, bóng đá, cầu lông, dưỡng sinh (thể dục), chọi gà, chạy việt dã. Văn bản Quy ước làng Châu Khê chưa đưa hoạt động văn nghệ nhân ngày hội làng nhưng thực tế mỗi khi làng mở hội đều có chương trình văn nghệ, do lực lượng địa phương hoặc mời đoàn văn công, đội văn nghệ ở các địa phương khác biểu diễn, giao lưu, phục vụ hội, phục vụ nhân dân không thu tiền vé. Trong văn bản Thần tích có ghi "xướng ca, đánh cờ 15 ngày". Thể thức hát xướng ca, đánh cờ còn rất ít người nhớ. Ông Lê Xuân Thọ, năm nay 85 tuổi (sinh năm 1924),hiện ở 42  Tam Giang, thành phố Hải Dương kể, vào khoảng năm 1942, 1943, 1944 ông là người châu Khê tại phố về quê xem hội được các cụ cho đánh trống tế, dân làng ngày đó ra đình xem tế đông lắm. Thể thao hiện nay có tổ chức thi đấu bóng đá, cầu lông, kéo co, chọi gà và trình diễn của câu lạc bộ dưỡng sinh. Bậc cao niên trong làng (thế hệ sinh trước, sau năm 1900) còn kể chuyện, thời trước Cách mạng tháng 8/1945, Châu Khê tổ chức thi luộc gà tại sân đình, thi trồng cây chuối dưới nước. Nhiều năm tổ chức hát trống quân bên bờ sông Cửu An giao lưu với làng Phù Ủng, huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên.  Điều 7 còn quy định về phần lễ, phần hội. Phần lễ: Các dòng, chi  họ, quý khách vào lễ dâng hương. Phần hội: Có mít tinh tưởng niệm trọng thể đọc chúc văn, cùng ôn cố tri ân nhớ về cội nguồn, nâng cao dân trí xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuỳ theo điều kiện từng năm (tổ chức) hội thi giới thiệu làng nghề kim hoàn, thăm quan công trình chuyển dịch cải tạo vườn tạp, sản xuất chăn nuôi dịch vụ, làm kinh tế giỏi với du khách. 
Tại lễ hội làng Châu Khê năm 2009, năm 2010, ngày 18 có lễ cáo yết, chuẩn bị đồ rước, tổ chức tế thần (địa phương mời đội tế làng Ngọc Cục, 1 làng thuộc xã Thúc Kháng). Có nhiều đoàn, cá nhân đến lễ, đặt lễ ở ban thờ trước hiên nhà tiền bái, trong nhà tiền bái. Lễ cá nhân ít, đoàn lễ nhiều. Đoàn nhiều tới hai, ba mươi người, đoàn ít cũng năm, bảy người. Đoàn lễ với trang phục chỉnh tề, đi theo trật tự. Mỗi đoàn lễ thường có mâm lễ vật do 1 người đội trên đầu. Mâm lễ vật gồm xôi, gà, quả, bánh, giấy tiền, hương, bia hộp, chai rượu nút lá chuối... (Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, chuẩn bị cho lễ hội, nhiều gia đình Châu Khê làm bánh xu xê, ruột mầu vàng, làm bằng bột lọc trộn với nước cốt quả dành dành, lá mảnh cộng, nhân bằng đậu xanh, gói lá chuối, hấp chín). Đoàn đi có hàng lối từ nơi xuất phát (từ 1 gia đình trong làng hoặc từ điểm dừng xe ô tô của đoàn lễ) tới ban thờ ở sân đình. Ban thờ đặt tại điểm gian giữa sân đình giáp với hiên đình. Ban thờ gồm: Phông vải mầu xanh, khẩu hiệu, 2 lọng che, ảnh Thành hoàng làng, bệ thờ tam cấp phủ vải đỏ, lư đồng, cúp hội làng Châu Khê, chậu cây sinh vật cảnh, lẵng và bình hoa tươi. Bên trên có khẩu hiệu "Lễ hội Xuân, giỗ tổ làng nghề vàng bạc Châu Khê, 19 tháng Giêng Kỷ Sửu 2009".
Lễ hội xuân - Giỗ tổ nghề vàng bạc Châu Khê
Ngày lễ chính, 19 tháng Giêng. Ngay từ sáng sớm, các đoàn lễ đến lễ đông hơn ngày 18. Đội tế nam của làng thực hiện nghi thức tế thành hoàng trong nhà tiền bái. Khai tế lúc 7 giờ 45 phút, đội trống, đội kiệu long đình, đội dâng hương dâng hoa, đội cờ lọng, bát bửu, đội rồng, sư tử đã chuẩn bị sẵn sàng tham gia lễ rước. Trước khi rước kiệu, tuyên bố khai lễ. 9 giờ 34 phút, khai lễ có chào cờ, hát quốc ca, giới thiệu đại biểu, trưởng thôn đọc lời chúc mừng khai mạc lễ hội, trưởng ban quản lý di tích đọc chúc văn. 10 giờ 5 phút, thực hiện nghi thức rước. Ban tổ chức công bố đội hình rước, phát lệnh rước. Đi đầu đoàn rước là đội múa lân, thứ tự tiếp theo học sinh, đội nhạc, đội cờ, lọng, kiệu nước (?), kiệu bát cống đặt tủ mỹ nghệ kim hoàn, đội chấp kích, đội tế nam (đội tế thôn Châu Khê, đội tế thôn Ngọc Cục), đội tế nữ, dân làng và khách thập phương. Đoàn rước từ sân đình đi qua cổng tam quan, vòng về giếng làng, (trước cách mạng đoàn rước đi thẳng đến nghè, làm lễ rồi quay lại đường cũ, đến ngã 3) rẽ về cổng chính làng, lên đê đi về hướng lăng mộ Phạm Sỹ. Nghỉ ở lăng mộ Phạm Sỹ, đoàn tế vào thắp hương. Thắp hương xong, đoàn rước tiếp tục hành trình rồi rẽ vào đường  đến chùa Sùng Ân tự. Qua cổng chùa, trở về đình làng. Về tới đình làng lúc 10 giờ 37 phút. Đặt an vị đồ rước. Trước cách mạng tháng 8/1945, đoàn rước có 3 điểm khác: Kiệu bát cống đặt tượng thành hoàng có lọng, quạt che 2 bên kiệu. Đi sau đội tế nam là hội đồng kỳ hào lý mục và các cụ cao niên trong làng. Nhiều năm xuất hiện kiệu bay, đoạn từ cổng Bến đến lăng Phạm Sỹ. Lúc đó kiệu và người khiêng kiệu, người cầm quạt, lọng cũng bay theo. 
Nhân vật được thờ được ghi chép ở Bản khai sự tích thành hoàng làng và sách Châu Khê thần tích sự trạng. Văn bản châu Khê thần tích quy định, "Ngày thần sinh, mồng 1 tháng Giêng hành lễ, sau 1 ngày quét dọn cung đình, thổi xôi, trầu, rượu, ngày chính mổ trâu lợn, mở xướng ca, đánh cờ suốt 15 ngày". Quy định kiêng huý chữ Sỹ, Dực, Hổ. Quy định cấm mặc sắc phục màu vàng, màu tím. Đây là những quy định khác so với văn bản Bản khai sự tích Thành hoàng làng viết năm 1938.  Sự khác nhau này có lẽ do khi các vị chánh hội, lý trưởng khai về phong tục thờ cúng Thành hoàng làng trước sắc lệnh của nhà vua lúc đó địa phương không còn duy trì kiêng khem cấm kị nữa.
Liên hệ trao đổi và chia sẻ
0913 542 332
phcuong39@gmail.com

DI SẢN LÀNG VIỆT

Assoc. Prof. Dr. PHAM HUNG CUONG
Head of Urban and Regional Planning Department
Address: 55 Giai Phong Road, Hai Ba Trung District, Hanoi, Vietnam
Email: cuongph@huce.edu.vn/ phcuong39@gmail.com

Mobile: 0913542332