Chiếc nón là một vật dụng quan trọng của người nông dân Việt Nam, trong thời đại mới có nhiều loại mũ thay thế công dụng nhưng không thể thay thế tính biểu tượng của chiếc nón của Việt Nam đối với bạn bè trên thế giới. Nhắc đến chiếc nón, chúng ta nghĩ ngay đến làng Chuông, xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, Tp Hà Nội.
Làng Chuông là một làng quê truyền thống lâu đời có từ thời xa xưa nằm giữa trung tâm tỉnh Hà Tây cũ nay là Thành Phố Hà Nội. Vào thế kỷ thứ 8 - 791 năm Tân Mùi, theo các bậc cao niên trong làng thì ban đầu làng Chuông có tên là Trang Thì Trung, về sau đông dân hơn nên được mở rộng thành làng. Đầu thời Lên Sơ, làng Chuông đã rất đông đúc.
Làng Chuông là tên nôm của xã Phương Trung, thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội. Làng Chuông ngày nay có 8 thôn, 21 xóm, mỗi xóm từ ngày xưa cách nhau bằng con đường xây gạch bổ cau.
Làng nghề mang đậm hồn Việt Nam
Làng Chuông là một làng nghề nổi tiếng cả nước với truyền thống làm nón lâu đời thông qua sản phẩm nón lá. Người dân làng Chuông sống chủ yếu bằng nghề làm nón lá còn hoạt động làm nông nghiệp không nhiều vì đất chật người đông. Không ai trong làng biết chiếc nón xuất hiện từ khi nào nhưng trong ca dao xưa đã có câu “Nón Chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ”. Có nhiều câu ca dao thể hiện một sự tri ân với những người làm nón tâm huyết yêu nghề, tạo cho nghề của cha ông một sức sống bền bỉ qua câu ca dạo được truyền tụng trong nhân gian:
“Muốn ăn cơm trắng cá trê
Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông”
Theo phân tích của một số nhà văn hóa thì hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ hoặc thạp đồng Đào Thịnh khoảng 2500-3000 năm trước. Qua hình ảnh đó, có thể thấy tổ tiên ta đã đội lên đầu một vật tựa chiếc nón có thể bằng một loại lá dày như lá cọ. Theo truyền thuyết dân gian trong làng thì sự tích chiếc nón lá bắt nguồn từ quá trình cha ông ta tối ưu hóa những chiếc lá đội đầu thành nón che mưa che nắng phục vụ con người trong lúc làm lụng và đi lại hàng ngày.
Để có được hình dáng như ngày hôm nay, chiếc nón lá đã trải qua một thời kỳ lâu dài thay đổi hình dáng. Đặc biệt với người làng Chuông thì chiếc nón dường như là một vật dung ăn đời ở kiếp với họ bởi công việc thường ngày của họ chính là làm ra chiếc nón phục vụ đời sống dân làng và làm hài lòng du khách. Trước đây, nghề làm nón lá phát triển mạnh mẽ, cả làng bao gồm già trẻ gái trai và cả trẻ con đều tham gia làm nón. Thời gian gần đây, do sự thay đổi của cuộc sống hiện đại mà nhu cầu sử dụng nón lá truyền thống suy giảm nhiều nên số người rời bỏ nghề nón nhiều hơn. Hiện nay, những thành phần dân cư chủ yếu thực hiện việc làm nón là người già, phụ nữ và trẻ em. Còn nhóm dân cư trong độ tuổi lao động thì đi tìm kiếm những công việc khác có thu nhập cao hơn công việc làm nón.
Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng. Nhưng từ năm 1940 đến nay, những người thợ làng Chuông chỉ còn làm duy nhất một loại nón.
Trước thế kỷ 20, những sản phẩm nón lá truyền thống của làng Chuông là nón ba vòng đấy là loại nón gần giống nón quai thao nhưng có ba vòng đấu, có thành tương đối nông. Nón có kích thuớc to và dành cho người nông dân làm đồng nên không được khâu kỹ. Nón thứ hai là nón thúng (quai thao) có vành rất rộng, hai bên buộc thao dành cho các cụ già đội đi chùa.
Các sản phẩm nón lá truyền thống của người dân làng Chuông chủ yếu là nón quai thao ngày trước và nón chóp từ đầu thế kỷ 20 do nghệ nhân Hai Cát tối ưu hóa từ chiếc nón lá miền Trung và nhu cầu sử dụng nón đương thời của đất Hà thành.
Loại thứ hai là nón thúng (quai thao) là loại nón có chiếc vành rất rộng, khi ngửa lên nón có hình như cái thúng, phía trong có cái khua đan bằng nan nhỏ, úp vào vành khăn để giữ nón cho chắc, hai bên buộc thao. Cỗ thao là mười sợi dây trò dệt bằng tơ do người làng Đơ Thao (hay làng Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì). Nón mười cũng là sản phẩm truyền thống của làng Chuông, có hình dạng như cái nia, các cụ già thường đội đi chùa.
Một loại nón cổ truyền khác của làng Chuông chính là nón lá già ghép sống. Đây là loại nón có từ rất lâu cùng thời với chiếc nón quai thao. Nón có ba vòng đấu, làm bằng lá hồ, khâu bằng móc đen rứa đen. Loại nón này rất chắc chắn nên có thể dãi dầu mưa nắng cùng người trên đồng với rất nhiều công dụng khác nhau.