Lịch sử phát triển nghề truyền thống
Đại Bái là một trong số những làng nghề gò, đúc đồng truyền thống lâu đời xứ Kinh Bắc. Từ xưa có câu ca:
Muốn ăn cơm trắng, cá trôi
Thì về làng Bưởi đánh nồi với anh
Muốn ăn cơm trắng cá ngần
Thì về làng Bưởi cầm cân buôn đồng
Nghề đúc đồng làng Đại Bái (Ảnh: thegioidodong.vn)
Theo thần phả, sắc phong ghi chép được ở làng (sao lục chép tay) thì Nguyễn Công Truyền sinh năm 989 tại làng Đại Bái, mất ngày 29-9 Âm lịch, năm 1069; là con ông Nguyễn Công Tiến và bà Lê Thị Ngọc Kim. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống học hành, năm 995 lúc lên 6 tuổi, ông theo cha mẹ xứ Thanh Nghệ để sinh sống (tương truyền rằng: Nay làng đó cũng gọi là làng Đại Bái, làng Bưởi và cũng làm nghề Đúc Đồng). Khi lớn lên ông vào quân ngũ, năm 25 tuổi làm quan Đô úy của triều đình Lý, được phong là Điện tiền tướng quân. Đến tháng 3 năm 1018 ông về Đại Bái thăm họ hàng quê hương. Do bố ông bị bệnh mất ở Thanh Nghệ, ông xin từ quan đưa mẹ về quê cũ phụng dưỡng và từ đó bắt đầu sáng chế ra nghề gò đồng. Ông cho đón lò rèn về tại làng để sửa chữa nông cụ sản xuất như búa, đe, lò bễ .v.v. Nhờ những công cụ nông nghiệp đã được cải tiến nên việc sản xuất được phát triển mạnh hơn. Dân làng noi theo đó mà lập nghiệp, dần dần thành nghề chính của làng. Khi mất ông được phong là Dực bảo trung hưng linh phù chi thần, rồi các triều sau gia phong: Quang úy địch bảo trung hưng trung đẳng thần, cuối cùng gia tăng Đoan túc tôn thần.
Đến thế kỷ thứ XV, XVI, làng có 5 ông tiến sỹ : Nguyễn Viết Lai, Nguyễn Xuân Nghĩa, Vũ Viết Thái, Phạm Ngọc Thanh, Nguyễn Công Tám. Sau khi được phong quan, về làng, các ông chú ý việc tổ chức và mở rộng sản xuất đăch biệt là việc phân công chuyên môn hoá ngành nghề, đã thành lập các phường sản xuất riêng từng loại mặt hàng như: Phường chuyên gò nồi đồng, phường làm mâm, phường làm ấm, phường làm chậu thau, phường làm thau lá, rút dây đồng làm hàng bạc và một phường hàng chợ chuyên mua bán để cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ hàng hoá. Mỗi phường đều tập trung một xóm để tiện việc sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Nhờ có sự tổ chức hoàn chỉnh đã giúp cho Đại Bái nhanh chóng phát triển với ngành nghề Đúc đồng, gò đồng với sự nâng cao rõ rệt về kỹ thuật luyện đồng: Lấy đất xét bờ sông xây ò đúc, lấy bùn ao nhài với tro trấu làm nơi luyện đồng, đồng pha kẽm làm đồng thau và sáng chế ra thuốc hàn đồng…
Cách đây khoảng 200 năm, những thợ giỏi của làng nghề đã lên kinh thành Thăng Long lập phường nghề thủ công. Phố Hàng Đồng ở khu phố cổ Hà Nội ngày nay chuyên buôn bán đồ đồng gia dụng, mỹ nghệ, nhiều chủ cửa hàng ở đây có nguồn gốc dân làng Đại Bái.
Với những điểm nhấn đặc biệt, Làng Đại Bái (Bắc Ninh) đang trong giai đoạn được Văn phòng Đề cử Kỷ lục Việt Nam - Viện Kỷ lục Việt Nam thiết lập hồ sơ đề xuất kỷ lục: “Làng nghề đúc đồng gia truyền lâu đời nhất Việt Nam”.
Ngày nay, làng Đại Bái tiếp tục phát triển và gìn giữnghề truyền thống với những hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh cùng sự cải tiến kỹ thuật, tự trang, tự chế ra máy móc như máy cán, máy dập, máy đánh bóng… sản phẩm tiêu thụ tại nhiều địa phương trên cả nước và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Đặc trưng của nghề truyền thống:
Đại Bái qua từng thời kỳ vẫn phát triển, đạt đến chuyên môn hóa chặt chẽ. Những kỹ thuật luyện đồng, sản phẩm ngày càng đa dạng, tinh xảo. Kỹ thuật luyện đồng, pha chế đồng đạt tới độ chuyên sâu, mang bí quyết riêng. Những mẫu mã đồ thờ như: Lư đồng, bát hương, đỉnh đồng, tượng đồng lần lượt được ra đời. Sản phẩm đồ đồng Đại Bái đạt chất lượng mỹ thuật cao, được nhiều lái buôn tìm về để phân phối khắp các vùng trong cả nước. Đời nối đời, các nghệ nhân trong làng truyền nghề cho các thế hệ con cháu tiếp nối nghề tổ.
Quá trình sản xuất truyền thống
Khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất là chọn lựa chất liệu và chế biến đồng. Chất liệu đồng là yếu tố quyết định để tạo nên một sản phẩm có chất lượng, vì vậy luôn luôn phải cẩn thận, kỹ lưỡng sao cho sạch, không lẫn nhiều tạp chất. Tỷ lệ pha chế đồng trong một sản phẩm cũng phải đúng để để cho ra những sản phẩm ưng ý nhất.